Từ ngày 10-1-2013, từ 12.000 điểm kinh doanh mua bán vàng miếng, cả nước sẽ chỉ còn lại 2.456 điểm, tức là chỉ còn khoảng 30% so với hiện tại.
Khống chế trạng thái và điểm mua bán
Con số 30% ấy nằm ở 17 ngân hàng và 14 doanh nghiệp. Liệu gần 2.500 điểm giao dịch này có đáp ứng đủ cho nhu cầu mua bán của người dân như trước đây? Và với các điều kiện đi kèm khác thì liệu tất cả chi nhánh của những tổ chức tín dụng này đều có vàng để bán?
Khống chế trạng thái và điểm mua bán
Con số 30% ấy nằm ở 17 ngân hàng và 14 doanh nghiệp. Liệu gần 2.500 điểm giao dịch này có đáp ứng đủ cho nhu cầu mua bán của người dân như trước đây? Và với các điều kiện đi kèm khác thì liệu tất cả chi nhánh của những tổ chức tín dụng này đều có vàng để bán?
Thông thường, các ngân hàng có từ vài chục đến vài trăm điểm giao dịch trên toàn quốc. Tuy nhiên, theo Thông tư 38 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành ngày 28-12-2012, các ngân hàng không được giữ trạng thái cuối ngày vượt quá 2% so với vốn tự có.
Ví dụ: ngân hàng A có vốn điều lệ là 10.000 tỉ đồng thì trạng thái cuối ngày cao nhất có thể mua vào là 2%, tương đương 200 tỉ đồng (hơn 4.000 cây vàng). Đó là với ngân hàng có số vốn điều lệ cao, còn những ngân hàng có vốn điều lệ thấp hơn thì số lượng sẽ giảm đi. Suốt thời gian qua, cung-cầu trên thị trường liên tục mất cân đối. Người dân vẫn tiếp tục mua vàng vào dù biết rõ giá vàng trong nước đắt hơn thế giới 4-5 triệu đồng/lượng. Lượng người bán ra rất ít. Vậy ngân hàng có thể hy vọng ngày nào cũng mua được vàng với số lượng là 2% vào cuối ngày hay không? Một câu hỏi khó trả lời.
Thông tư 38 còn quy định ngân hàng không được duy trì trạng thái vàng âm trong ngày. Nghĩa là ngân hàng chỉ có thể bán vàng ra nếu mua vào được. Vậy giả sử toàn hệ thống của ngân hàng đó mua được 4.000 lượng vàng, chia đều cho tất cả chi nhánh 300-350 thì mỗi nơi chỉ được bán ra hơn 10 lượng vàng/ngày. Chưa kể, nếu số vàng mua vào ít hơn thì việc bán ra sẽ ít hơn. Giả sử giá vàng tiếp tục giảm sâu, người dân đổ đi mua vàng và ngân hàng bán ra nhưng cuối ngày ngân hàng lại không cân đối được thì sẽ xử lý như thế nào? Ngân hàng có thể liên kết với các ngân hàng khác và doanh nghiệp vàng để cân đối trạng thái của mình nhưng nếu nhiều ngân hàng cùng lúc đều gặp khó khăn thì làm sao cân đối?
Từ ngày 10-1, người dân mua bán vàng phải đúng nơi quy định. Hình: NS
Nên nới giới hạn trạng thái mua bán vàng
Phải khẳng định rằng chủ trương chống “vàng hóa” của NHNN là đúng. Năm 2012, một số lượng vàng đã được bán ra và chuyển đổi thành VND gửi ngân hàng. Dù giá vàng có chênh lệch giữa thế giới và trong nước nhưng tỉ giá vẫn ổn định. Tất nhiên mỗi chính sách ra đời đều có hai mặt. Thông tư 38 ban hành ngày 28-12-2012 của NHNN quy định về trạng thái vàng của ngân hàng cũng nhằm tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Việc mua bán vàng ở những nơi đúng quy định, có hóa đơn chứng từ là nhằm bảo vệ an toàn cho người dân. Và thị trường vàng dần dần đi vào ổn định.
Nhưng một số ý kiến cho rằng nên chăng nới thêm “room” (giới hạn) trạng thái vàng cuối ngày của các ngân hàng, không phải là 2% mà là 4%-5% chẳng hạn. Hoặc NHNN có thể cho ngân hàng bán vàng ra trạng thái âm với biên độ +/-2%, tương tự như việc quy định thái ngoại tệ của các ngân hàng ở mức +/-20%. Điều này sẽ gỡ khó được cho các ngân hàng bán vàng ra đáp ứng nhu cầu thị trường nhưng cuối ngày không mua vào được, rơi vào trạng thái âm.
Các ngân hàng, doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh vàng miếng:
17 ngân hàng
1. Ngân hàng TMCP Á Châu
2. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
3. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
4. Công ty TNHH MTV Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam
5. Ngân hàng TMCP Đông Á
6. Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam
7. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
8. Ngân hàng TMCP Nam Á
9. Ngân hàng TMCP Phát triển T.PHCM
10. Ngân hàng TMCP Phương Đông
11. Ngân hàng TMCP Phương Nam
12. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
13. Ngân hàng TMCP Sài Gòn
14. Ngân hàng TMCP Tiên Phong
15. Ngân hàng TMCP Việt Á
16. Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
17. Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
14 doanh nghiệp
1. Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý TP.HCM
- Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam
2. Tổng Công ty Vàng Agribank Việt Nam
3. Công ty TNHH Bảo Tín Minh Châu
4. Công ty Cổ phần Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI
5. Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Vàng Việt Nam
6. Công ty TNHH MTV Kim Ngọc Phú
7. Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Ngọc Hải
8. Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Ngọc Thắm
9. Công ty Cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận
10. Công ty TNHH Vàng bạc Phúc Thành
11. Công ty Cổ phần Thương mại Vàng bạc Đá quý Phương Nam
12 Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
13. Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Sài Gòn – SJC
14. Công ty TNHH Mi Hồng
Trước đây số lượng các điểm bán vàng miếng là do cung-cầu thị trường quyết định. Còn hiện nay Nhà nước quy định: Điều kiện về vốn, số lượng cơ sở, chi nhánh… của các doanh nghiệp quyết định số lượng điểm bán vàng. 14 doanh nghiệp được mua bán vàng miếng tuy không bị khống chế trạng thái nhưng lại bị hạn chế số lượng điểm giao dịch vàng. Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp lại tập trung ở các TP lớn như Hà Nội và TP.HCM và tập trung theo khu vực. Do đó, nhiều con đường trước đây có điểm mua bán vàng miếng, sắp tới sẽ không còn bán nữa, sẽ không thuận lợi cho người tiêu dùng.
YÊN TRANG-phapluattp.vn
Ví dụ: ngân hàng A có vốn điều lệ là 10.000 tỉ đồng thì trạng thái cuối ngày cao nhất có thể mua vào là 2%, tương đương 200 tỉ đồng (hơn 4.000 cây vàng). Đó là với ngân hàng có số vốn điều lệ cao, còn những ngân hàng có vốn điều lệ thấp hơn thì số lượng sẽ giảm đi. Suốt thời gian qua, cung-cầu trên thị trường liên tục mất cân đối. Người dân vẫn tiếp tục mua vàng vào dù biết rõ giá vàng trong nước đắt hơn thế giới 4-5 triệu đồng/lượng. Lượng người bán ra rất ít. Vậy ngân hàng có thể hy vọng ngày nào cũng mua được vàng với số lượng là 2% vào cuối ngày hay không? Một câu hỏi khó trả lời.
Thông tư 38 còn quy định ngân hàng không được duy trì trạng thái vàng âm trong ngày. Nghĩa là ngân hàng chỉ có thể bán vàng ra nếu mua vào được. Vậy giả sử toàn hệ thống của ngân hàng đó mua được 4.000 lượng vàng, chia đều cho tất cả chi nhánh 300-350 thì mỗi nơi chỉ được bán ra hơn 10 lượng vàng/ngày. Chưa kể, nếu số vàng mua vào ít hơn thì việc bán ra sẽ ít hơn. Giả sử giá vàng tiếp tục giảm sâu, người dân đổ đi mua vàng và ngân hàng bán ra nhưng cuối ngày ngân hàng lại không cân đối được thì sẽ xử lý như thế nào? Ngân hàng có thể liên kết với các ngân hàng khác và doanh nghiệp vàng để cân đối trạng thái của mình nhưng nếu nhiều ngân hàng cùng lúc đều gặp khó khăn thì làm sao cân đối?
Từ ngày 10-1, người dân mua bán vàng phải đúng nơi quy định. Hình: NS
Nên nới giới hạn trạng thái mua bán vàng
Phải khẳng định rằng chủ trương chống “vàng hóa” của NHNN là đúng. Năm 2012, một số lượng vàng đã được bán ra và chuyển đổi thành VND gửi ngân hàng. Dù giá vàng có chênh lệch giữa thế giới và trong nước nhưng tỉ giá vẫn ổn định. Tất nhiên mỗi chính sách ra đời đều có hai mặt. Thông tư 38 ban hành ngày 28-12-2012 của NHNN quy định về trạng thái vàng của ngân hàng cũng nhằm tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Việc mua bán vàng ở những nơi đúng quy định, có hóa đơn chứng từ là nhằm bảo vệ an toàn cho người dân. Và thị trường vàng dần dần đi vào ổn định.
Nhưng một số ý kiến cho rằng nên chăng nới thêm “room” (giới hạn) trạng thái vàng cuối ngày của các ngân hàng, không phải là 2% mà là 4%-5% chẳng hạn. Hoặc NHNN có thể cho ngân hàng bán vàng ra trạng thái âm với biên độ +/-2%, tương tự như việc quy định thái ngoại tệ của các ngân hàng ở mức +/-20%. Điều này sẽ gỡ khó được cho các ngân hàng bán vàng ra đáp ứng nhu cầu thị trường nhưng cuối ngày không mua vào được, rơi vào trạng thái âm.
Các ngân hàng, doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh vàng miếng:
17 ngân hàng
1. Ngân hàng TMCP Á Châu
2. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
3. Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
4. Công ty TNHH MTV Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam
5. Ngân hàng TMCP Đông Á
6. Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam
7. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam
8. Ngân hàng TMCP Nam Á
9. Ngân hàng TMCP Phát triển T.PHCM
10. Ngân hàng TMCP Phương Đông
11. Ngân hàng TMCP Phương Nam
12. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
13. Ngân hàng TMCP Sài Gòn
14. Ngân hàng TMCP Tiên Phong
15. Ngân hàng TMCP Việt Á
16. Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
17. Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
14 doanh nghiệp
1. Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý TP.HCM
- Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam
2. Tổng Công ty Vàng Agribank Việt Nam
3. Công ty TNHH Bảo Tín Minh Châu
4. Công ty Cổ phần Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI
5. Công ty Cổ phần Đầu tư và Kinh doanh Vàng Việt Nam
6. Công ty TNHH MTV Kim Ngọc Phú
7. Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Ngọc Hải
8. Công ty TNHH Vàng bạc Đá quý Ngọc Thắm
9. Công ty Cổ phần Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận
10. Công ty TNHH Vàng bạc Phúc Thành
11. Công ty Cổ phần Thương mại Vàng bạc Đá quý Phương Nam
12 Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
13. Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Sài Gòn – SJC
14. Công ty TNHH Mi Hồng
Trước đây số lượng các điểm bán vàng miếng là do cung-cầu thị trường quyết định. Còn hiện nay Nhà nước quy định: Điều kiện về vốn, số lượng cơ sở, chi nhánh… của các doanh nghiệp quyết định số lượng điểm bán vàng. 14 doanh nghiệp được mua bán vàng miếng tuy không bị khống chế trạng thái nhưng lại bị hạn chế số lượng điểm giao dịch vàng. Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp lại tập trung ở các TP lớn như Hà Nội và TP.HCM và tập trung theo khu vực. Do đó, nhiều con đường trước đây có điểm mua bán vàng miếng, sắp tới sẽ không còn bán nữa, sẽ không thuận lợi cho người tiêu dùng.
YÊN TRANG-phapluattp.vn